3

TỪ NHẬP THỂ ĐẾN THÁNH THỂ,

TỪ THÁNH THỂ ĐẾN BIẾN THÁI

 

 

TỪ NHẬP THỂ ĐẾN THÁNH THỂ  

 

K

itô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng long trọng cử hành Mừng Kỷ Niệm 2000 Năm Thiên Chúa đă hóa thân làm người và ở giữa loài người thấp hèn tạo vật chúng ta, một sự thật không thể chối căi đă xẩy ra trong thời gian được lịch sử loài người ghi nhận và ngay trên mặt đất thuộc về cái vũ trụ bao la hầu như vô cùng bất tận này. 

 

Trước hết, Thiên Chúa đă hóa thân làm người và ở giữa loài người tạo vật chúng ta là một sự thật không thể chối căi đă xẩy ra trong thời gian được lịch sử loài người ghi nhận.

 

Thật vậy, theo những bản văn được Kitô Giáo công nhận là Phúc Âm của ḿnh, điển h́nh nhất là của thánh sử Luca, đă cho thấy có một nhân vật tên là Giêsu ở Na-Gia-Rét xứ Galilêa, được sinh vào thời hoàng đế Cê-Sa Âu-Quốc-Tô làm sổ kiểm tra lần đầu tiên trong toàn đế quốc Rôma (x Lk 2:1), và đă hoạt động thuần tôn giáo song vẫn bị lên án tử bởi Hội Đồng Do Thái dưới quyền lănh đạo của thượng tế Anna và Caipha bấy giờ, rồi cuối cùng đă bị kết án tử giá bởi Philatô, vị toàn quyền của đế quốc Rôma cai trị xứ Giuđa thời hoàng đế Cê-Sa Ti-Bê-Ri-Ô thống trị đế quốc Rôma cũng là thời Hêrôđê đang làm thủ hiến xứ Galilêa (x Lk 3:1, 2).

 

Kitô hữu chúng ta ngày nay, tuy không được diễm phúc và vinh hạnh như các vị tông đồ là những chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô, đă tận mắt thấy, tận tai nghe và tận tay chạm (x 1Jn 1:1) được vị “Thiên Chúa vô h́nh” (Col 1:15), vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta” (x 1Jn 1:2) nơi nhân vật lịch sử Giêsu Na-Gia-Rét, song những chi tiết về thời gian liên quan đến lịch sử trên đây đă chứng tỏ cho chúng ta thấy thực sự có một nhân vật, theo đức tin Kitô Giáo của ḿnh, là một Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23; x Is 7:14). Nguyên việc dân Do Thái cho đến ngày nay vẫn c̣n chối bỏ không chịu chấp nhận nhân vật Giêsu Na-Gia-Rét này là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai, cũng là một chứng cớ hùng hồn và hiển nhiên cho thấy thực sự đă có một đối tượng bị họ phủ nhận, một đối tượng mà chính các vị tông đồ, dù được sống gần và chứng kiến, cũng phải lấy đức tin mà chấp nhận, như lời vị trưởng tông đồ đoàn là Phêrô tuyên xưng: “Thày là Đức Kitô (Đấng Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), lời tuyên xưng đă làm nên Kitô Giáo và là nền tảng Kitô Giáo, một tôn giáo tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, đồng bản thể với Cha Người trên trời, và đồng thời cũng là người thật, như mọi người chúng ta dưới mặt đất này.

 

Sau nữa, Thiên Chúa đă hóa thân làm người và ở giữa loài người tạo vật thấp hèn chúng ta là một sự thật không thể chối căi đă xẩy ra ngay trên mặt đất thuộc về cái vũ trụ bao la hầu như vô cùng bất tận này.

 

Thật vậy, vụ trụ không gian đây bao la hầu như vô tận, đến nỗi trí khôn loài người dù có văn minh tân tiến theo khoa học và kỹ thuật đến đâu đi nữa, như hiện nay hay cả sau này, chắc chắn sẽ vĩnh viễn không thể nào khám phá ra hết, một cách chính xác, đầy đủ, hoàn toàn và trọn vẹn, tầm vóc cũng như chiều kích khôn ḍ như một mầu nhiệm hiển nhiên của nó. Hiện nay khoa học mới chỉ ước lượng một cách chung chung là có cả hằng triệu, hằng tỉ hành tinh hệ (galaxies) trong vũ trụ này, trong đó có một hành tinh hệ gần thái dương hệ nhất được gọi là Giải Ngân Hà (Milky Way), và có ba hành tinh hệ gần Giải Ngân Hà nhất mà con người không cần viễn vọng kính cũng có thể nh́n thấy từ trái đất, đó là, nếu nh́n từ Bắc Cực, hành tinh hệ Andromeda Nebula, cách trái đất 2 triệu năm ánh sáng, và nếu nh́n từ Nam Cực, hai hành tinh hệ nhỏ hơn, Magellanic Clouds, cách trái đất từ 160 đến 180 ngàn năm ánh sáng. Riêng nội bộ cấu trúc của mỗi hành tinh hệ, nếu nhỏ cũng rộng tới mấy ngàn năm ánh sáng, trong khi một tinh hệ lớn có thể rộng tới cả nửa triệu năm ánh sáng.

 

Nếu theo khoa học, mỗi giây vận tốc ánh sáng đi được 186.282 dặm (một trăm tám mươi sáu ngàn hai trăm tám mươi hai dặm, hay 299.792 cây số), tức mỗi giây (hay mỗi tiếng tíc tắc của đồng hồ) ánh sáng đi được 7 ṿng rưỡi trái đất (với chu vi từ đông sang tây rộng 24.901 dặm, hay 40.075 cây số, tương đương với một chiếc xe chạy 366 ngày không ngừng với tốc độ 68 dặm một giờ), thử hỏi một ngày có 24 tiếng (tức có 86.400 giây) ánh sáng sẽ đi được bao xa, một tháng có 30 ngày ánh sáng c̣n đi xa tới đâu, và một năm có 365 ngày ánh sáng đi xa tới cỡ nào. Cứ nghĩ đến 2000 năm lịch sử Kitô Giáo thôi con người đă thấy lâu lắm rồi, xưa lắm rồi, cổ lắm rồi, đằng này ánh sáng phải đi hết 2 triệu năm ánh sáng mới từ trái đất tới được hành tinh hệ Andromeda Nebula, th́ thử hỏi vũ trụ không gian với cả tỉ hành tinh hệ khác nhau như thế không bao la bát ngát hầu như vô cùng bất tận hay sao?

 

Thế mà, chẳng là ǵ trong cái bao la hầu như vô cùng bất tận của thiên nhiên vũ trụ này, có chăng nó chỉ là một hạt bụi trong cơi không gian vô tận, trái đất lại là nơi xẩy ra một biến cố vô cùng hệ trọng, một biến cố làm cho thời gian đi vào vĩnh cửu, một biến cố gắn liền trời với đất, siêu nhiên với tự nhiên, vô h́nh với hữu h́nh, thần linh với tạo vật, đó là Biến Cố Nhập Thể, đó là biến cố Thiên Chúa vô h́nh đă trở nên hữu h́nh, đó là biến cố Thiên Chúa là Thần Linh đă hóa thành nhục thể!

 

Tại sao Thiên Chúa không chọn một nơi nào khác trong vũ trụ này để tỏ ḿnh ra, như mặt trời là nơi xứng đáng nhất, v́ dù có là một trong số triệu triệu tinh cầu thuộc vũ trụ này, mặt trời dầu sao cũng chẳng những rộng hơn trái đất 109 lần, lại c̣n là chính nguồn ánh sáng và nhiệt năng (10 ngàn độ F hay 5 ngàn rưỡi độ C ở ngoài mặt, và 27 ngàn độ F hay 15 ngàn độ C ở bên trong) chi phối tất cả mọi sự trên trái đất nói chung và sinh vật nói riêng, (như trường hợp người ta bị sốt trên 42 độ C hay 106 độ F là chết)? Phải chăng biến cố vô cùng quan trọng và cao trọng vô tiền khoáng hậu này chỉ có thể xẩy ra duy nhất trên trái đất nhỏ bé này, là v́ nó có loài người chúng ta, hay nói cách khác, là v́ nó đă trở thành nơi Thiên Chúa vô cùng yêu thương và khôn ngoan thượng trí  chọn để dựng nên loài người giống h́nh ảnh Ngài và tương tự như Ngài, loài Thiên Chúa đă ban cho quyền làm chủ thế giới hữu h́nh nói chung và sinh vật nói riêng, v́ Ngài đă dựng nên  mọi sự cho họ (x Gen 1:26, 28; Hiến Chế Gaudium et Spes, 39.1).

 

Bởi Thiên Chúa đă thực sự nhập thể làm người trên trái đất này, chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: trái đất chính là con tim của vũ trụ, dù nó quay chung quanh mặt trời (như con người phải giữ ngày hưu lễ), đến nỗi, nếu không có trái đất cũng không có vũ trụ, kể cả mặt trời, v́ mặt trời là để cho trái đất chứ không phải trái đất cho mặt trời, giống như ngày hưu lễ được lập nên v́ loài người chứ không phải loài người v́ ngày hưu lễ (x Mk 2:27). Vũ trụ không gian dù có bao la hầu như vô tận đi nữa cũng chỉ là một thực tại hữu h́nh và hữu hạn, rồi cũng có ngày cùng tận, chứ không thể nào vô cùng bất tận như chính Thiên Chúa là Toàn Hữu, Hằng Hữu. Chính v́ thế vũ trụ không gian hầu như vô cùng bất tận này mới cần phải có một hồn sống, đó là con người, một thực thể nhỏ bé so với cả không gian vũ trụ chỉ giống như một vi khuẩn cần phải có kính hiển vi mới nh́n thấy. Bởi v́, chính ở nơi con người và nhờ có con người nhỏ bé như hư không này, vũ trụ hữu h́nh và hữu hạn ấy mới có thể giao tiếp với thế giới vô h́nh và vô hạn, mới có thể ư thức được Đấng Hóa Công của ḿnh để mà sinh động theo cùng đích siêu việt của ḿnh, nhất là vũ trụ bao la hầu như vô tận theo không gian mêng mông dài rộng này mới có thể vươn lên cao vời tới tầm mức thần linh tối thượng được, tầm mức Thiên Chúa Toàn Năng muốn tỏ ra cũng như muốn tạo vật phải đạt tới nơi con người, nhờ con người và cùng với con người, một loài đă được chính Ngài mặc lấy bản tính của họ.

 

Trái đất này đă thực sự trở thành nơi Thiên Chúa là Thần Linh tỏ ḿnh ra, nhất là cho dân Do Thái vào thời Cựu Ước, qua các cuộc thần hiển của Ngài (theophany) diễn ra trong không gian (điển h́nh nhất là với Moisen và cho dân Do Thái trong cuộc Xuất Ai Cập về Đất Hứa), một cách mầu nhiệm nơi các yếu tố thiên nhiên (ánh sáng, mây trời, ngọn núi, bụi cây, đá, khói, lửa, nước v.v.). Chẳng những thế, trái đất c̣n thực sự trở thành nơi Thiên Chúa vô cùng cao cả cư trú và sinh sống với loài người 2000 năm trước đây (tại mảnh Đất Hứa của dân Do Thái). Chính v́ thế trái đất sẽ không thể nào hoàn toàn bị hủy diệt và trở về với hư vô v́ những băng hoại của nó do con người gây ra từ khi hai nguyên tổ loài người sa phạm (x Rm 8:19-22). Trái lại, nếu bản tính của con người đă được thánh hóa, được thần linh hóa, khi Thiên Chúa làm người, tức là nếu bản tính loài người, sau khi bị hư hại v́ nguyên tội, hay sau khi tội lỗi cùng với sự chết đột nhập thế gian (x Rm 5:12), đă được nên một với Thần Tính hằng hữu vô cùng toàn năng và toàn thiện nơi “vị trung gian duy nhất là con người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), th́ “toàn thể tạo vật nôn nóng trông chờ việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa... sẽ được giải phóng khỏi phải chịu bị hủy hoại và được thông phần vào phúc tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19, 21).

 

Niềm nôn nóng trông chờ nơi toàn thể tạo vật này chẳng những đă được đâm mầm từ biến cố Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mà c̣n được nẩy mầm khi ḷng đất (tiêu biểu cho toàn thể thiên nhiên tạo vật) ôm ấp lấy Thi Thể Tử Giá của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô nơi ngôi mộ đá. Để rồi, khi Thánh Thể Phục Sinh của Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết ra khỏi ngôi mồ vào ngày thứ ba, (tức trước thời điểm thân xác bị thối rữa sau bốn ngày nằm trong mồ), toàn thể tạo vật đă thực sự bắt đầu tiến tŕnh được biến đổi từ hư hoại đến bất hoại, từ sự chết đến sự sống. Tiến tŕnh biến đổi này chính là tiến tŕnh Thánh Thần “canh tân bộ mặt trái đất”, qua việc truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, tác nhân được Chúa Kitô Phục Sinh sai đi “khắp thế gian loan truyền tin mừng cho tất cả mọi tạo vật” (Mk 16:15), chứ không phải chỉ cho loài người, chỉ “cho mọi dân tộc” (Mt 28:19) mà thôi. Tiến tŕnh biến đổi này, từ đó cho tới khi hoàn toàn nên trọn theo đúng như dự án của Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của mọi sự (Rev 1:17, 2:8, 22:13), Đấng “là tất cả trong mọi sự” (1Cor 15:28), vẫn được diễn tiến liên tục nơi Bí Tích Thánh Thể và bởi Bí Tích Thánh Thể, “bảo chứng của vinh quang mai hậu được ban cho chúng ta” (xem Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, 1323; Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, 47; Lời Nguyện sau Ca Vịnh Ngợi Khen của Kinh Tối II Lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa theo Sách Nguyện Giáo Dân).